Tổng quan về ngành thiên văn học, nghiên cứu khoa học các thiên thể và các hiện tượng tự nhiên có nguồn gốc ngoài vũ trụ, cả tính chất vật lý, hóa học và sự vận động của chúng. Ngành Kỹ thuật y sinh 11:29 02/01/2019 Ngành Kỹ thuật y sinh là ngành ứng dụng thành Tuy nhiên, kể từ năm 1986, khái niệm "đổi mới sáng tạo" - với nội hàm chủ yếu là việc phát triển và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội - đã luôn được Đảng và Nhà nước đặt ra trong nhiều chủ trương, đường lối, chính sách. Trải qua các kỳ đại hội, quan điểm này ngày càng được nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn. Năm học 2022-2023, học sinh lớp 1 tựu trường sớm nhất trước 2 tuần so với ngày tổ chức khai giảng. Xét công nhận hoàn thành chương trình tiểu học và xét công nhận tốt nghiệp THCS trước ngày 30/6/2023. Hoàn thành tuyển sinh các lớp đầu cấp trước ngày 31/7/2023. Chiến dịch "Cùng Điểm 10 - Vui Tựu Trường, Sẵn Sàng Học Tốt" nhận được sự hưởng ứng tích cực và đã đạt được thành công đáng kể trong việc nhắc nhớ hình ảnh Điểm 10 trong tâm trí phụ huynh và học sinh - là đối tượng khách hàng mục tiêu của nhãn hàng. Bài 7: Những thành tựu văn hóa thời cận đại. I Sự phát triển của văn hóa trong buổi đầu thời cận đại. - Văn học :Ở Phương Tây. - Xuất hiện những nhà tư tưởng tiến bộ, những nhà văn, thơ, nhà viết kịch nổi tiếng. Cooc-nây (1606 - 1684) bi kịch cổ điển Pháp. La Một thành tố quan trọng để làm nên văn hóa học đường đó là hành vi văn hóa ứng xử trong các nhà trường. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Ngô Thị Minh. Văn hóa ứng xử trong trường học sẽ tạo môi trường và động lực để phát triển, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ XjnID6. Sơ lược về Thiên Văn HọcCó thể nói thiên văn là ngành khoa học tự nhiên đầu tiên của nhân loại, khi con người đã qua thời kỳ đồ đá và tự biết trồng trọt, chăn nuôi để phục vụ đời sống thì khát khao tìm hiểu và bản tính tò mò đã thúc đẩy nhân loại ngắm nhìn bầu trời và cố gắng tìm ra những điều hay ho ẩn chứa nơi tận cùng của hiểu biết của nhân loại về thế giới tự nhiên còn hạn chế thì các thượng đế luôn được cho là nguyên nhân của tất tần tật mọi thứ trên đời, bao gồm cả những gì con người quan sát được trên bầu trời huyền bí kia. Lập luận về thượng đế chi phối bầu trời càng được củng cố khi chúng ta không thế với tới được khoảng không bao la phía trên mình mà chỉ có thể cảm nhận bằng thị giác. Thế nên mục đích ban đầu của việc quan sát bầu trời là giao tiếp với thần linh và đưa ra những lời dự đoán mang tầm vĩ mô cho tương lai tinh là sản phẩm của việc quan sát thiên văn để cố gắng kết nối với thần linh, một thời chiêm tinh được xem là một bộ môn khoa học cho đến khi thống kê được áp dụng để xử lý những dữ liệu quan sát được từ bầu trời thì người ra nhận ra chiêm tinh không còn phù hợp với sự phát triển nhân loại nữa. Nguồn ảnh VoxKhi các nhà quan sát cảm thấy lý thuyết về thần linh không còn phù hợp nữa và khoa học thống kê được áp dụng vào việc quan sát thì ngành Thiên Văn Học mới bắt đầu được khai sinh. Những thành tựu ban đầu của Thiên Văn Học là việc tính toán được quỹ đạo của các thiên thể và dự đoán được thời gian, địa điểm xảy ra các hiện tượng thiên trí tuệ của nhân loại được nâng cao và trình độ kỹ thuật nhảy vọt thì Thiên Văn Học cũng bắt đầu trở mình với các ý tưởng và thành tựu đột phá. Và giờ đây ta gọi nó là “Thiên Văn Học hiện đại”.Thành tựu hữu hình của Thiên Văn HọcNhững thành tựu đầu tiên của Thiên Văn Học là sự hiểu biết của nhân loại về quỹ đạo các thiên thể, chu kỳ của các hiện tượng thiên văn hay là vị trí tương đối của các ngôi sao trên bầu trời về sau phát triển thành bản đồ sao – đây là một di sản vô giá của Thiên Văn Học cổ điển.Đối với Thiên Văn Học hiện đại, các quan sát thiên văn đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các thế giới chúng ta chưa từng được đặt chân tới. Cũng chính Thiên Văn Học đã mở đường cho con người chinh phục những chân trời mới, đưa con người đi đến những nơi không tưởng. Nói đến những thứ này nghe có vẻ khá xa vời và sẽ có một số người cho rằng việc đó không thực sự cần thiết vì nó không giúp chúng ta cải thiện được những vấn đề tồn đọng trên hành tinh chúng ta đang sống. Nhưng có bấy nhiêu người biết rằng chính nhờ những thành tựu của Thiên Văn Học làm nền tảng mà chúng ta có thể có thể xây dựng được một thế giới phẳng như ngày nay. Mấu chốt ở đây chính là hệ thống vệ tinh giúp chúng ta có thể định vị và kết nối thông tin xuyên lục địa trong chưa đầy một thống vệ tinh giúp con người kết nối chính là thành tựu rõ nhất của Thiên Văn Học nhưng không được nhiều người để ý đến. Nguồn ảnh NASANhưng...Các thành tựu vô hình của Thiên Văn Học mới là thứ định vị Thiên Văn trong nền tri thức nhân loại. Thuở sơ khai nhân loại nghĩ rằng nơi mình sống là cái rốn của vũ trụ và Trái Đất có được nền văn minh là do sự ưu cái của các thượng đế. Nhưng chính nhờ những thành tựu trong Thiên Văn Học đã giúp chúng ta xác định lại vị trí của mình trong vũ trụ này. Đơn giản, chúng ta chỉ là một hành tinh nhỏ bé trong một Hệ Mặt Trời vĩ cũng đến khi sự quan sát vũ trụ được trợ sức bởi công nghệ thì chúng ta mới biết được Vũ Trụ này vô tận như thế nào và Hệ Mặt Trời được xem là vĩ đại trong vài thế kỷ trước cũng chỉ là một hạt cát của một sa mạc rộng lớn mang tên Ngân Hà và cái sa mạc rộng lớn ấy cũng chỉ như một phân tử nước trong đại dương Vũ Trụ. Điều này đã cho chúng ta biết nhân loại nhỏ bé đến chừng nào và sự tồn tại của nền văn minh trên Trái Đất cũng không phụ thuộc vào sự ưu ái của thế lực siêu nhiên nào vũ trụ là bao la thế đấy, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm thấy được bất kỳ nền văn minh nào mà chúng ta có thể liên lạc. Và Trái Đất chính là nơi duy nhất đến lúc này chúng ta biết rằng có thể tồn tại một nền văn minh. Bức ảnh dưới đây là chân dung của Trái Đất ở khoảng cách 6,4 tỷ km vào năm 1990 bởi tàu Voyager 1 là minh họa chân thực nhất về sự ưu ái mà tạo hóa chứ không phải thượng đế đã dành cho Trái Đất. Thiên Văn Học đã giúp chúng ta nhận ra sự ưu ái này và nhiệm vụ của chúng ta giờ đây là bảo vệ nó, hãy dành những thời gian ngắn ngủi của một đời người cũng như thời gian tồn tại của nhân loại để mang lại những điều tốt đẹp nhất dành cho nhau, để xứng đáng với những gì chúng ta đã nhận được từ tạo hóa thay vì tranh giành từng tất đất, phá hủy sự sống thiên liêng và mỏng manh đang tồn tại trên Trái 1990 Carl Sagan đã đề nghị NASA xoay tàu Voyager 1 để chụp lại hình ảnh Trái Đất, hình ảnh này được đặt tên là "Pale Blue Dot" - tức đốm xanh mờ. Đốm xanh ở gần trung tâm bức ảnh chính là Trái Đất của chúng ta. Nguồn ảnh NASATôi xin mượn lại câu nói huyền thoại của Carl Sagan về bức ảnh Pale Blue Dot để diễn tả một phần nào những giá trị vô hình mà Thiên Văn Học đã mang lại cho chúng điểm xa xôi này, Trái Đất dường như chẳng có gì đặc biệt để phải quan tâm. Nhưng với chúng ta, nó thực sự khác biệt. Tại đó có tất cả những người bạn yêu thương, tất cả những người bạn biết, tất cả những người bạn từng nghe qua, tất cả những người đã từng tồn tại và đã sống hết mình cho cuộc đời của Đất chỉ là một võ đài nhỏ trong một đấu trường vũ trụ khổng nghĩ về những dòng máu đã đổ xuống do những đại tướng và những hoàng đế trong sự vinh quang và chiến thắng để họ có thể trở thành một người chủ nhất thời của một phần nhỏ trong đốm nhỏ tôi, đó là lời nhắc cho nhiệm vụ của chúng ta rằng phải sống tử tế hơn với mọi người và bảo tồn, trân trọng Đốm xanh mờ này, ngôi nhà duy nhất của chúng ta! 6. William Herschel William Herschel là nhà thiên văn học người Anh gốc Đức, chuyên gia về kỹ thuật kiêm nhà soạn nhạc. Herschel nổi tiếng nhờ phát hiện ra sao Thiên Vương cùng hai vệ tinh lớn của nó Titania và Oberon. Thêm nữa, ông còn phát hiện ra hai vệ tinh của sao Thổ và bức xạ hồng ngoại. Ngoài sở thích thiên văn học, Herschel có đam mê mãnh liệt với âm nhạc; ông sáng tác khoảng 24 bản giao hưởng nhưng ít được biết đến. Ngày 13/3/1781, trên kính viễn vọng nhỏ của mình, W. Herschel phát hiện một thiên thể lạ. Ban đầu, ông nghĩ nó là sao chổi nhưng sau khi tính toán và xem xét kĩ, ông xác định đó là một hành tinh mới - Thiên Vương tinh. Kể từ đó, hành tinh ngoài cùng hệ Mặt Trời không còn là sao Hỏa nữa mà thay vào đó là sao Thiên Vương. Nhờ khám phá này, ông được bầu làm thành viên của Hội Hoàng Gia Anh và được nhận giải thưởng hàng năm từ Hoàng gia. Hơn thế nữa, ông còn được vua George III phong hiệu là “Nhà Thiên văn của Triều đình”. 7. Johannes Kepler Nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler 27/12/1571 – 15/11/1630 là người đầu tiên có thể giải thích một cách đầy đủ về sự chuyển động của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Ông miêu tả sự chuyển động này bằng ba quy luật mà sau này chúng đã được xuất bản vào năm 1609. Để mở khóa bí ẩn về vũ trụ, ông tưởng tượng mọi hành tinh đều quay quanh một quỹ đạo hình ê-líp thay vì hình tròn như quan niệm của các nhà thiên văn học cùng thời khác. Và đây cũng là quy luật đầu tiên ông dùng để miêu tả sự chuyển động của các hành tinh. Giống như Copernicus, Kepler cũng tin vào thuyết Nhật tâm. Ông đã vấp phải rất nhiều sự phản đối từ phía Hội đồng Nhà thờ khi họ cho rằng Trái Đất mới là trung tâm của vũ trụ. Tuy vậy, những trở ngại này lại chỉ khiến Kepler thêm mạnh mẽ, tiếp thêm cảm hứng cho những nghiên cứu sau này của ông. Điều thú vị nằm ở chỗ Kepler vốn là một con chiên rất ngoan đạo. Thậm chí, ông từng lên kế hoạch trở thành giáo sĩ trước khi dấn thân vào con đường khoa học. Kepler từng làm việc khá thân thiết với Tycho Brahe nhưng mối quan hệ giữa cả hai tương đối gượng gạo. Có tài liệu ghi lại cho rằng Brahe sợ người trợ lý của mình sẽ làm lộ các nghiên cứu của ông. Điều này xảy ra sau khi Kepler phát hiện quy luật chuyển động của các hành tinh. Sau này, Kepler còn đóng góp nhiều khám phá rất quan trọng như sự ảnh hưởng của Mặt Trăng với thủy triều hay thiết lập một vài phép tính tích phân. 8. Edwin Powell Hubble Edwin Powell Hubble 20/11/1889 – 28/9/1953 là một nhà vật lý, nhà thiên văn học quốc tịch Mỹ. Ông là người rất thành công trong lĩnh vực nghiên cứu về thiên văn, vũ trụ khi khám phá ra các ngân hà khác bên ngoài ngân hà Milky Way mà chúng ta từng biết. Mặc dù thành quả này là tập hợp những sự đóng góp của nhiều nhà khoa học khác nhau nhưng Hubble đóng vai trò chính trong việc quan sát qua kính viễn vọng Hooker. Tiếng tăm của ông nổi lên nhờ phát hiện Vũ trụ là vô tận và Thiên hà chúng ta đang sống chỉ là một phần không đáng kể. Bên cạnh đó, tên của Hubble còn được đặt cho một định luật do chính ông phát hiện ra. Ngày nay, chúng ta gọi là Định luật Hubble các ngôi sao càng xa trung tâm vũ trụ thì di chuyển xa ra khỏi trung tâm với tốc độ càng nhanh. Hubble sau đó cũng được dùng để đặt tên cho Đài thiên văn vũ trụ Hubble - một trong những đài thiên văn lớn nhất thế giới hiện nay. Trong những năm tháng cuối đời, ông dành nhiều thời gian tranh luận cho việc xem xét, nhìn nhận lĩnh vực thiên văn học là một ngành của Vật lý. Sau nhiều năm tranh luận, Ủy ban trao Giải Nobel cho rằng nhận định của ông là đúng. Tuy nhiên, quyết định này là quá muộn khi ông đã qua đời vào năm 1953 mà không nhận được giải thưởng khoa học uy tín này. 9. Hipparchus Hipparchus là một nhà thiên văn học Hy Lạp cổ đại nổi tiếng những năm 140 - 125 trước Công nguyên, thuộc thế hệ các nhà thiên văn đầu tiên của thế giới. Được biết đến là nhà thiên văn học vĩ đại nhất của thời cổ đại, có thể xem Hipparchus như cha đẻ sáng lập ra ngành thiên văn. Đóng góp quan trọng nhất của ông đối với lĩnh vực này là tập hợp được một danh mục toàn diện nhất về hàng trăm ngôi sao mà ông quan sát được. Danh mục này sau đó đã được sử dụng rộng rãi bởi Ptolemy trong các quan sát thiên văn của mình. Một công trình khác không thể không nhắc tới của Hipparchus là nghiên cứu về sự di chuyển chậm của các vì sao và chòm sao tương ứng với đường xích đạo trên bầu trời. Ông còn vận dụng lượng giác - một đề tài mà ông cho là tiền đề cơ bản để đo chính xác khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng trong thời điểm nhật thực. Ngoài ra, Hipparchus còn nổi tiếng với việc phát minh ra các phương pháp đo độ sáng của một ngôi sao mà vẫn còn được sử dụng đến ngày nay. 10. Galileo Galilei Galileo Galilei 15/2/1564 – 8/1/1642 là nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Ý, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn và cách quan sát thiên văn sau đó, ủng hộ Chủ nghĩa Copernicus. Những đóng góp của ông trong lĩnh vực thiên văn học quan sát bao gồm việc xác nhận các tuần của sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của sao Mộc sau này được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông và quan sát, phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng tham gia công việc nghiên cứu khoa học - công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn. Không chỉ là người đầu tiên thông báo về các ngọn núi và hố va chạm trên Mặt Trăng, ông còn ước tính được chiều cao của các ngọn núi từ các quan sát đó. Điều này dẫn ông đi tới kết luận rằng Mặt Trăng "xù xì và không bằng phẳng, giống như chính bề mặt của Trái Đất", chứ không phải là một mặt cầu hoàn hảo như Aristotle đã tuyên bố trước đó. Việc Galileo bênh vực cho Chủ nghĩa Copernicus đã gây ra sự tranh cãi lớn nhất trong đời ông khi đi ngược lại quan điểm Địa tâm Trái Đất là trung tâm của vũ trụ. Sau khi Galileo trình bày thuyết Nhật tâm, giáo hội Công giáo Rôma ngay lập tức ban lệnh cấm tuyên truyền nó vì trái ngược với ý nghĩa của Kinh Thánh. Galileo cuối cùng buộc phải từ bỏ thuyết Nhật tâm của mình và sống những ngày “giam lỏng” tại gia đến cuối đời theo lệnh của Toà án dị giáo La Mã. Nguồn Historic figures, BBC Biên dịch Trần Mẫn Linh Galileo Galilei 1564 – 1642 là một nhà thiên văn học, nhà vật lý và triết gia người Ý có sức ảnh hưởng lớn. Galileo Galilei sinh ngày 15/02/1564 gần Pisa và là con của một nhạc sĩ. Ban đầu, ông theo học ngành y tại Đại học Pisa nhưng sau đó đã đổi sang triết học và toán học. Năm 1589, Galileo trở thành giáo sư toán học tại Pisa, nhưng tới năm 1592, ông đã chuyển sang làm giáo sư toán tại Đại học Padua và giữ vị trí này cho đến năm 1610. Trong thời gian này, ông đã thực hiện nhiều thí nghiệm, bao gồm thí nghiệm về tốc độ rơi của các vật thể khác nhau, cơ học và con lắc. Năm 1609, Galileo đã nghe về phát minh kính viễn vọng ở Hà Lan. Mặc dù không được nhìn thấy bản mẫu, song ông đã phát triển một phiên bản ưu việt và thực hiện nhiều khám phá thiên văn. Đó là khám phá về những dãy núi và thung lũng trên bề mặt của mặt trăng, các vết đen mặt trời, bốn mặt trăng lớn nhất của sao Mộc và các pha của sao Kim. Thành tựu của ông về thiên văn học đã khiến Galileo trở nên nổi tiếng và được bổ nhiệm làm nhà toán học của triều đình ở Florence. Năm 1614, Galileo bị buộc tội dị giáo vì ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernicus. Điều này mang tính cách mạng vào thời điểm đó khi hầu hết mọi người tin rằng Trái đất mới nằm ở trung tâm hệ mặt trời. Năm 1616, ông bị nhà thờ cấm giảng dạy hoặc tuyên truyền thuyết này. Năm 1632, ông bị kết tội dị giáo một lần nữa sau khi cuốn sách Dialogue Concerning the Two Chief World Systems’ Đối thoại về hai hệ thống thế giới chính được xuất bản. Cuốn sách đã đưa ra các lập luận ủng hộ và phản đối lý thuyết của Copernicus dưới hình thức một cuộc thảo luận giữa hai người. Galileo đã bị triệu tập đến Tòa án Rome. Ông bị kết tội và nhận án tù chung thân, sau đó được giảm xuống quản thúc vĩnh viễn tại gia ở biệt thự của ông tại Arcetri, phía nam Florence. Bên cạnh đó, ông cũng bị buộc phải công khai rút lại sự ủng hộ của mình đối với thuyết nhật tâm của Copernicus. Mặc dù lúc đó sắp bị mù song Galileo vẫn tiếp tục viết. Năm 1638, cuốn sách Discourses Concerning Two New Sciences’ Những thuyết trình về hai ngành khoa học mới đã được xuất bản, trong đó trình bày những ý tưởng của ông về các định luật chuyển động và các nguyên lý cơ học. Ngày 08/01/1642, Galileo qua đời tại Arcetri. 13/02/1633 Galileo tới Rome, đối mặt Tòa án dị giáo Thiên văn học là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người. Những dấu vết khởi đầu của ngành thiên văn có từ thời tiền sử. Qua quan sát chuyển động biểu kiến của Mặt Trời, Mặt Trăng, con người đã tìm ra những thời điểm thay đổi của thời tiết. Vào cuối thời đại đồ đá thiên niên kỷ 4 - 3 TCN, ở những nền văn minh cổ đại, quan sát bầu trời là công việc rất quan trọng của giới tăng lữ. Trước khi con người học được cách định vị trên Trái Đất và sáng tạo ra môn địa lý học, họ đã quan sát bầu trời và sản sinh ra những mô hình đầu tiên của nó. Thời điểm thiên văn học trở thành một môn khoa học theo cách nhìn nhận ngày nay đã diễn ra vào thế kỉ 16 nhờ công sức của Nicolaus Copernicus, kế tiếp là Galileo Galilei, Johannes Kepler, Isaac Newton. Một trong những tác nhân quan trọng nhất đối với cuộc cách mạng thiên văn học của Nicolaus Copernicus là phát minh kính viễn vọng. Nhà thiên văn, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris Bài viết nàynằm trong loạt bàiLịch sử khoa học Nền tảng Chung Triết học toán học Xã hội học Thuật chép sử khoa học Ngụy khoa học Theo thời kỳ Thời kỳ sơ khai Thời cổ đại Thời Hồi giáo thời trung cổ Thời kì Phục Hưng Cách mạng khoa học Lãng mạn khoa học Khoa học tự nhiên Thiên văn học Sinh học Hóa học Địa chất học Vật lý học Toán học Đại số Hình học xts Những bước tiến của thiên văn học hiện đại đã xảy ra vào nửa cuối thế kỷ 19 khi các phương pháp phổ học và chụp hình được sử dụng trong quan sát thiên văn. Những bước nhảy vọt của thiên văn học được ghi nhận vào những năm 40 của thế kỷ 20 nhờ các quan sát thiên văn vô tuyến và tiếp đó là sự kiện con người khắc phục được những cản trở của khí quyển Trái Đất khi quan sát toàn vẹn phổ của vũ trụ từ các vệ tinh nhân tạo.

thành tựu của thiên văn học